Tu Viện Kim Cang
c
x

Bát Quan Trai

Cúng Vong

Nghi Thức Khai Kinh

Lễ Phật Đản

Vía Xuất Gia

Vía Thành Đạo

Sám Sáu Căn

Kinh Vu Lan

Vía Phật A Di Đà

An Vị Phật

Quá Đường

Kinh Vô Thường

Bổ Khuyết Tâm Kinh

Phóng Sanh

Văn Khuyên Tu

Sám Thích Ca

Sám Di Lạc

Sám Quy Mạng

Sám Quy Mạng II

Bài Khể Thủ

Sám Xuất Gia

Sám Từ Vân

Sám Châu Hoằng

Sám Mục Liên

Sám Thảo Lư

Bài Tống Táng

Sám Cầu Siêu

Sám Thập Phương I

Sám Thập Phương II

Sám Đại Từ

Phát Nguyện Và Hồi Hướng

Nghi Thức Kết

Kinh Diệt Trừ Phiền Giận

Phục Nguyện

Tác Bạch

Ý Nghĩa và Cách Tụng Niệm

 
MS Word Version Printer Friendly Versionc
Kinh Nhật Tụng

KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU


(Vị chủ lể thắp 3 cây hương qùy ngay thẳng, cầm hương ngang trán, niệm lớn bài cúng hương).

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT


Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phưởng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ Đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng Pháp giới chúng sinh.
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ Đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kệ Tán Phật)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận
.

KỲ NGUYỆN


Đệ tử ......... hôm nay nhân mùa báo hiếu, có chút duyên lành, dâng hương kính lạy mười phương tam thế Phật, Pháp, Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử chí thành tụng trì kinh chú, xưng tán Hồng danh, niệm Phật công đức: chuyên vì kỳ siêu hương linh ..... cùng cửu huyền thất tổ nội ngoại tôn thân, cha mẹ nhiều đời và hiện tại của đệ tử cùng pháp giới chúng sinh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ siêu sinh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức từ bi xót thương tiếp độ. Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.

(Đứng dậy cắm hương lên lư rồi vị chủ lể chắp tay đứng thẳng và niệm)
 

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường không tịch
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới Đế Châu ví Đạo Tràng Mười Phương Phật Bảo Hào Quang sáng ngời
Trước Bảo Tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin đảnh lễ Quy Y.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:

1- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền, Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo (1 lạy)

2- Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát, (1 lạy)

3- Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)


Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư phật rõ biết ngọn hương chí thành,
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phúc liền ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
(3 lần)
Cành dương nước tịnh,
Rưới khắp ba ngàn,
Tánh không tám đức lợi trần gian,
Pháp giới rộng thênh thanh,
Trừ diệt tai nàn, Lửa dữ hóa sen vàng.

Nam mo^ Thanh Lương Địa Bồ Tt ma ha
tát. (3 lần)

PHẬT THUYẾT

KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU


Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá vệ thành Kỳ thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật mới lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.

Đức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?

Phật rằng: trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây.

Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa
Đống xương hổn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc nầy.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rả xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân.

Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng hoằng
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.

A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân ?
Thế Tôn mới bảo lời tằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe.
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cọng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bèn ngỗ ngịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấy lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhất gữi gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu bú sữa nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê
Điếu thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái sơn.

Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là báo hiếu mặc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười thánh
Cực khổ dường gánh ngặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.

Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy?
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tính quen càn bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn.
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về.

Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hiù mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bịnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao các buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mãi miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu riêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.

Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần tẻ lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.

Tội bất hiếu lưởng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Đập vào mình vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn con quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.

Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dùng phạm thanh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe
Ân cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp Tu Di núi chẳng sai
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ơn nầy thấm đâu?
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có ngưới dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì công dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắc nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.
Nghe Phật
nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cấm ngăn
Đồng thanh bạch Phật lời rằng:
Làm sao trả đặng ân thâm song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật Tử !
Phải lắng nghe ta chỉ sau nầy
Các ngươi muốn đáp ân dày
Phải nên biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi.
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình cầnphải tụng kinh lạy Phật
Pháp Tam Qui bậc nhất giới trai.

Những lời ta dạy hôm nay
Các ngươi nhớ lấy từ đây phụng hành.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay
Sau khi chết bị đày vào ngục
Ngũ vô gián cũng gọi a tỳ
Ngục nầy trong núi thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục nầy hàng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội can hành hình
Vì bất hiếu nên mình thụ khổ
Lột thịt ra máu đổ tràn lan
Lại có chó sắt, rắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhân nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau
Móc bằng sắt, thương, đao, gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le
Nếu mà đặng chết liền đã đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.

Sự hành phạt tại a tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên.
Nhất là phải kinh nầy in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển nầy
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.

Nếu in được ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung.

Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong Tứ-chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên
Ví như bị bách thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phanh thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.
Dẫu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy

Chúng con cũng chẳng trái lời thầy
khuyên.
Đức A-Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế-Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng-sinh
Dễ bề phúng tụng, cần chuyên tu hành.
Phật mới bảo A-Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thật là chân kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu-đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn hàng Phật-tử rất mừng rất vui.
Thảy một lòng vâng theo lời Phật

Và kính thành tin chắc vẹn truyền,
Đồng nhau trở lại Phật tiền,
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.

(3 tiếng chuông rồi tụng Bát-nhã)


BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA TÂM KINH:
Tâm trí-tuệ thanh thanh rộng lớn,
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần,
Lầu lầu một tính thiên chân,
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm,

Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt,
Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay,
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.
Hàng Bồ-tát danh Quán-Tự-Tại,
Khi tham thiền vô-ngại đến trong,
Thẩm vào trí-tuệ mở thông,
Soi thấy năm uẩn đều không có gì,
Độ tất cả không chi khổ ách.

Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, Không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia
Cũng lại như vậy đồng về chân không
Tòa sắc-tướng nhân ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu chẳng tịnh chẳng sờn chẳng thêm.

Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ-uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vẫn không có thân gì già chết
Huống chi là hết chết già sao?
Tứ-đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhân pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí-tuệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt-ráo chu viên
Niết-bàn quả chứng chân nguyên hoàn-toàn.

Tam Thế Phật, Y đàng Bát-nhã
Đáo Bồ-Đề chứng quả chánh chân
Cho hay Bát-nhã là hơn
Pháp-môn tối thắng cõi chân mau về.
Thiệt thần-chú linh tri đại lực
Thiệt thần-chú đúng bực quang-minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên-nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác-ngộ vô sư
Thiên-nhiên chân-thiệt bất hư
Án-lam Thần-chú Chân-Như thuyết rằng:

Yết-đế, Yết-đế, Ba-la Yết-đế, Ba-la Tăng Yết-đế, Bồ-đề Tát-bà-ha.
(đọc 3 lần)

CHÚ VÃNG SANH


Nam mô A di đa bà dạ. Đa tha dà đá dạ. Đá địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đá tất đam bà tỳ. A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tỳ ca lan đá. Dà di nị dà dà na, Chỉ đá ca lệ ta bà ha.
(3 lần)

Tướng Phật Di-đà sáng chẳng qua
Sắc vàng sáng ánh tốt hơn hoa
Bạch hào chiếu diệu năm non cả
Thanh nhãn trong ngời bốn biển xa,
Trong sáng hóa ra vô số Phật
Hiện hàng Bồ-tát cũng hằng sa.
Lợi sinh bốn tám lời Từ-nguyện,
Chín phẩm liên-đài độ chúng ta.


Nam mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, Đại-từ Đại-bi tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật.
(1 hay 3 tràng tùy ý)
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
(3 lần)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.
(3 lần)
Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát
3 lần)
Nam-mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát.
(3 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng Bồ-Tát.
(3 lần)

S Á M N G U Y Ệ N



NGUYỆN CẦU CHƯ PHẬT MƯỜI PHƯƠNG
ĐỘ CHO BÁ TÁNH THẾ THƯỜNG PHÁT TÂM
ĐẠO MẦU VÔ THƯỢNG THẬM THÂM
KHẮP CÙNG NAM NỮ GIEO MẦM HIỀN LƯƠNG
CẦU CHO GIA QUYẾN AN KHƯƠNG

NƯỚC NHÀ THẠNH VƯỢNG DÂN THƯỜNG BÌNH
YÊN.
NGUYỆN CẦU THẤT TỔ CỬU HUYỀN
ÔNG BÀ CHA MẸ HIỆN TIỀN QUÁ VONG
KẺ CÒN NGƯỜI MẤT THẢY ĐỒNG
THÁC VỀ CỰC LẠC SỐNG CÒN TRƯỜNG SANH
HIỆN TIỀN QUYẾN THUỘC AN LÀNH
HAI BÊN THÂN TỘC CHÚNG SANH THẢY LÀ
PHƯỚC DUYÊN ĐẦY ĐỦ TAM ĐA
ĐỒNG NHAU LỢI LẠC NHÀ NHÀ AN VUI.
BỐN MÙA HOA QUẢ TỐT TƯƠI
KHẮP TRONG THIÊN HẠ SỐNG VUI HÒA BÌNH
NGUYỆN CHO PHÁP GIỚI CHÚNG SINH
TU VỀ CÕI PHẬT QUANH MINH AN NHÀN.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU, ĐỊA TẠNG
CHỨNG MINH ĐỆ TỬ LINH-SAN MAU VỀ.

H Ồ I H Ư Ớ N G:


Kỳ siêu công-đức hạnh thù-thắng,
Phúc quý vô-biên đều Hồi-Hướng,
Khắp nguyện chúng-sinh trong pháp giới,
Chóng sinh về cõi Phật Di-Đà.

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền-não,
Nguyện được trí-tuệ thật hiểu rõ,
Khắp nguyện tội chướng đều tiêu mất,
Đời đời thường hành đạo Bồ-tát.

Nguyện sinh về Tịnh-độ phương Tây,
Chín phẩm sen vàng là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật ngộ vô-sinh,
Bồ-tát bất-thoái làm bạn lữ.

P H Ụ C N G U Y Ệ N



Phật-từ quảng-đại, cảm ứng vô sai, quang giáng đạo tràng, chứng minh công-đức.
Kim thời đệ tử... cung tựu Phật tiền, phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, chuyên vì kỳ nguyện: thất-tổ cửu huyền, đa sinh phụ-mẫu quá khứ, thất thế phụ-mẫu sinh thành, thượng chí cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ-tỷ, hạ chí tôn điệt tằng huyền, thúc bá đệ huynh, cô di tỷ muội; cập tứ sinh lục đạo, thập loại cô hồn, oan gia trái chủ, cừu thù chấp đối, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, nhất thiết viễn cận đẳng chư chân linh.
Duy nguyện: chân linh bất muội, ngao du mã não chi giai, bổn tính chiếu nhiên, từ bộ kim thành chi lộ, bạch liên hoa nội, thường văn Bát nhã chi âm, bích ngọc trì trung, đản thính vô sinh chi ngữ.

Phổ nguyện: hiện tiền đệ tử hiếu tâm kiên cố, đạo hạnh tinh chuyên, pháp giới nhân thiên, tề thành Phật đạo.


 
 

TAM TỰ QUY


Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
(1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
(1 lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.
(1 lạy)

HỒI HƯỚNG


Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.