Tu Viện Kim Cang
c
x

Bát Quan Trai

Cúng Vong

Nghi Thức Khai Kinh

Lễ Phật Đản

Vía Xuất Gia

Vía Thành Đạo

Sám Sáu Căn

Kinh Vu Lan

Vía Phật A Di Đà

An Vị Phật

Quá Đường

Kinh Vô Thường

Bổ Khuyết Tâm Kinh

Phóng Sanh

Văn Khuyên Tu

Sám Thích Ca

Sám Di Lạc

Sám Quy Mạng

Sám Quy Mạng II

Bài Khể Thủ

Sám Xuất Gia

Sám Từ Vân

Sám Châu Hoằng

Sám Mục Liên

Sám Thảo Lư

Bài Tống Táng

Sám Cầu Siêu

Sám Thập Phương I

Sám Thập Phương II

Sám Đại Từ

Phát Nguyện Và Hồi Hướng

Nghi Thức Kết

Kinh Diệt Trừ Phiền Giận

Phục Nguyện

Tác Bạch

Ý Nghĩa và Cách Tụng Niệm

 
MS Word Version Printer Friendly Versionc
Kinh Nhật Tụng

 

VĂN KHUYÊN-TU ( I )

Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc

Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân

Cuộc vui những ước vô ngần

Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!

Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ

Chất huyển-hư giọt lộ lồng hoa

Đôi mươi trẻ, chín mươi già

Số phần yểu thọ khó qua vô-thường

Dép dưới giường, lên giường vội biệt

Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?

Mạng người hô-hấp kinh thay

Nghĩ cơn vĩnh-biệt tuyền đài mà đau

Xót duyên kiếp vì sao ngắn-ngủi

Chấp thân chi để tủi cho thân

Da bao những thịt xương gân

Xác nầy dường thể đống phân sạch gì?

Tóc, răng, móng khác chi đất bợn

Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao!

Bên ngoài rệp đốt muổi đeo

Bên trong sán, lải lẫn vào nhớp chưa?

Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ

Cơn lạnh-lùng, đêm giá trời đông

Xét thân nhơ khổ vô cùng

Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát-ly

Trách người thế mê chi lắm nhẽ

Sánh phong-lưu phô vẻ y-quan

Kẻ khờ cũng học đài-trang

Để lòng điên-đảo theo đàng sắc thanh

Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa

Đảy da hôi ướp xạ xông hương

Khéo đòi nhung gấm phô-trương

Chỉ tuồng che lớp vô-thường hôi tanh

Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi

Lắm cơ mưu đeo đuổi yên hoa

Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa

Diêm-Vương sắp rước đến tòa U-minh

Làn tóc bạc đưa tin quỉ-sứ

Gốc răng long điểm chỉ qui âm

Càng tài, càng sắc, càng dâm

Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi

Cuộc hành lạc một thời thương tiếc

Nẽo luân-hồi muôn kiếp đắng cay

Đến khi sắp xuống diêm-đài

Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời

Vợ lưu-luyến đầy vơi giọt lệ

Con thảm-thương kể lễ khóc than

Dù cho quyến thuộc trăm ngàn

Có ai thay thế cho chàng được chăng

Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi

Người chết đi dong ruổi phách hồn

Đường âm mờ tựa đêm hôm

Trông ra quạnh quẻ bồn-chồn thảm-thê

Nại-hà đến lạnh tê gió lốc

Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương

Bảy ngày lìa quá cõi dương

Âm-ty đã trải trăm đường hỏi tra

Tào-quan xử thét la chẳng vị

Ngục tốt hờn tay chủy, tay xoa

Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa

Soi tường thiện ác chối qua được nào

Người nhân đức cho vào cửa phước

Kẻ hung hoang giải trước hình ty

Đọa-đày khổ-sở xiết chi

Mới hay nhân-quả mấy khi sai lầm

Rừng đao kiếm bao năm hết tội

Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang

Trả đền cho dứt nghiệp oan

Mới mong thoát khỏi con đàng long-đong

Dù ai có to lòng, lớn mật

Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng

Chẳng qua đối trước Diêm-quân

Cúi đầu co gối chịu phần xử tra

Hồn phách đã xa chơi âm-giới

Thi hài còn ở cõi dương-gian

Có tiền mua lớp áo quan

Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh-lùng

Chất da thịt sẽ cùng tan rả

Tấm hình hài lần hóa tanh hôi

Chỉ trong chầy sớm mà thôi

Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm

Nét kiều-diễm chập chờn xuân mộng

Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân

Khi xưa, tài sắc mười phần

Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh

Thời oanh-liệt hùng anh đâu tá

Cuộc ái-ân hư-giả còn chi

Phất phơ cành liễu xanh rì

Giấy tiền treo đó dường nghi mối sầu

Bóng chiều rũ xuống màu cỏ biếc

Bia mồ trơ một chiếc vắng không

Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng

Đời người đến thế là xong một đời

Ví chăng biết tìm nơi giải-thoát

Nương về ngôi chánh-giác qui-y

Luân-hồi hẳn dứt có khi

Bên trời bát-nhã còn chi lo phiền

Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống

Đất từ-bi gieo giống hoa-đàm

Giữ lòng thiện dứt lòng tham

Gái, trai, Tăng, tục đều kham tu-hành

Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng

Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn

Dần dà tính thiệt so hơn

Tuổi xuân qua mất để hờn về sau

Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm

Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh

Chớ nên mình phụ lấy mình

Trách sao Diêm-lão vô-tình chẳng dung

Bỏ điều ác xin làm theo thiện

Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau

Lại vì quyến-thuộc bảo nhau

Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì

Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác

Cho mọi người đều thoát sông mê

Dù trong lao khổ dám nề

Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin

Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh

Dám để cho rồi rảnh ưu-du

Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu

Còn e kiếp khác công-phu lỡ-làng

 

 

VĂN KHUYÊN-TU ( II )

Từ vô-thỉ một màu thanh-tịnh

Vẫn bao la chẳng bến chẳng bờ

Không, không dơ sạch, sạch dơ

Không tăng, không giảm hư-vô không bằng

Lạc một bước sa chân mang hổ

Phải vô-minh lắm nỗi truân chuyên

Vào ra lục-đạo triền-miên

Làm thân tứ-loại thảm phiền biết bao

Gây tội ác càng cao càng nặng

Núi thiết-vi khó đặng thoát ra

Ở trong khắp hết Ta-bà

Mang thân thọ khổ kể mà sao xong

Thế có lẽ theo dòng bể khổ

Cho rằng vui mà nỡ đắm say

Một mai thân đã đến ngày

Ôi thôi! Hồn biết giờ nầy đi đâu?

Hoặc địa-ngục, hoặc đầu-thai thú

A-Tu-La, ngạ-quỉ chăng là

Ngục hình thọ khổ kêu la

Súc sanh đày đọa Tu-La ưu-phiền

Lũ ngạ-quỉ huyên-thiên vô-số

Chịu đoái-hoài lữa đỏ tứ-tung

Xung quanh những cảnh não nùng

Lâm ly thống thiết khôn cùng xót xa

May gặp lúc người ta để bước

Chốn trần-gian mà lướt chông gai

Kẻ mê đắm đuối hướt hài

Mãn rôì thế cuộc hình hài ra tro

Còn kẻ trí tò mò xét nghĩ

Cái thân nầy có tý nào vui

Trải qua một cuộc tới lui

Lưng còm gối mỏi xa trời gần hang

Để mắt ngó gò-hoang nghĩa-địa

Cỏ xanh rì mai mỉa người ta

Kẻ giàu người khó khác thôi

Mãn phần rồi cũng về nơi chốn nầy

Kẻ sang trọng với người hèn hạ

Ba tấc hơi mồ mả chung đây

Người già người trẻ bằng nay

Cũng đồng gởi xác ra ngoài gò hoang

Kìa phụ-nữ nọ chàng nam-tử

Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh

Kẻ đuôi người điếc lưu-manh

Hồn qui dị lộ gởi mình hang sâu

Kẻ vương-bá công-hầu tể-tướng

Lâm trận đồ cũng mượn gò kia

Ai ôi ! nghĩ kỹ ai bì

Cái thân không thiệt hồn đi nơi nào

Sực tỉnh lại mau tu tập

Kíp qui-y Phật, Pháp cùng Tăng

Hôm mai giới-luật ân-cần

Chuyên câu niệm Phật độ thân cho rồi

Kìa cực-lạc là nơi an-dưỡng

Đất lưu-ly vô-lượng khiết-tinh

Có ao thất-bảo quang-minh

Có sen chín phẩm lớn Kình bánh xe

Lại thất-bảo ngỏa ngoê đẹp đẽ

Nước bát-đức sạch sẽ tinh-vi

Bảy hàng cây báu lưu-ly

Lan-can bảy lớp ma-ni sáng ngời

Chim nói pháp hôm mai êm dịu

Hoa trên không nhiêu nhiểu khắp cùng

Khắp trong một sát độ-trung

Dị hương thanh nhạc vui mừng thảnh thơi

Nơi bảo toạ một tòa vương-pháp

A-Di-Đà nói pháp thuyết-kinh

Trang-nghiêm vô-lượng quang-minh

Hào-quang sáng chói ba thành mười phương

Đại-thế-Chí pháp-vương chi tử

Toạ liên-đài một chữ tiếp sanh

Tay cầm sen trắng thanh thanh

Bước đi thế-giới rung-rinh ba ngàn

Quán-Thế-Âm nghiêm-trang tự-tại

Chấp tịnh bình tay sái cam-lồ

Hóa thân khắp cõi hư-vô

Độ loài tam-giới tam-đồ vãng-sanh

Kẻ học Phật hiểu rành chơn-lý

Phật tức tâm lý sự tỏ tường

Tâm là tịnh khó nghĩ lường

Di-Đà cực-lạc tìm phương độ rồi

Khá suy xét ngộ rồi sẽ thấy

Ráng công-phu chớ cậy tài cao

Phải hành lục-độ dồi trau

Nhứt tâm trì niệm rồi sau đắc thành

Tín, hạnh, nguyện thi hành hằng bữa

Gắng ghi trau thở tấc lòng

Bồ-đề nảy nhánh đơm bông

Lên thuyền bát-nhã hội đồng pháp-thân

Khá ghi lời thuyết chánh chân.