Tu Viện Kim Cang
c
x

Bát Quan Trai

Cúng Vong

Nghi Thức Khai Kinh

Lễ Phật Đản

Vía Xuất Gia

Vía Thành Đạo

Sám Sáu Căn

Kinh Vu Lan

Vía Phật A Di Đà

An Vị Phật

Quá Đường

Kinh Vô Thường

Bổ Khuyết Tâm Kinh

Phóng Sanh

Văn Khuyên Tu

Sám Thích Ca

Sám Di Lạc

Sám Quy Mạng

Sám Quy Mạng II

Bài Khể Thủ

Sám Xuất Gia

Sám Từ Vân

Sám Châu Hoằng

Sám Mục Liên

Sám Thảo Lư

Bài Tống Táng

Sám Cầu Siêu

Sám Thập Phương I

Sám Thập Phương II

Sám Đại Từ

Phát Nguyện Và Hồi Hướng

Nghi Thức Kết

Kinh Diệt Trừ Phiền Giận

Phục Nguyện

Tác Bạch

Ý Nghĩa và Cách Tụng Niệm

 
MS Word Version Printer Friendly Versionc
Kinh Nhật Tụng

KINH

BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI

(Thắp đèn đốt trầm xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)

 

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:
Án lam. (7 lần)

TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, ta bà ha. (3 lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN:
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha. (3 lần)

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

Nguyện thử diệu hương vân
Biến mãn thập phương giới
Cúng dường nhứt thiết Phật
Tôn Pháp chư Bồ Tát
Vô biên Thanh Văn chúng
Cập nhứt thiết Thánh Hiền.

Duyên khởi quang minh đài
Xứng tánh tác Phật sự
Phổ huân chư chúng sanh
Giai phát Bồ Đề tâm
Viễn ly chư vọng nghiệp
Viên thành Vô Thượng Đạo.

TÁN PHẬT

Pháp Vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ

Ư nhứt niệm quy y
Năng diệt tam kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán thán
Ức kiếp mạc năng tận.

QUÁN TƯỞNG

(Đứng dậy cắm hương lên lư, rồi vị chủ lể chắp tay đứng thẳng và niệm)
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như Đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

ĐẢNH LỄ

(Vị chủ lễ xá ba xá rồi niệm lớn)

Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (đồng lạy một lạy)

Nam mô Ta Bà Giáo-chủ, đại từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (đồng lạy một lạy)

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán thế Âm Bồ Tát, Đại thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh tịnh Đại Hải chúng Bồ tát.

(đồng lạy một lạy)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô A rị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, đồ lô đồ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì,địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.

Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

PHẬT NÓI

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Ai đã là đệ tử Phật, phải chuyên tụng kinh Bát Đại Nhân Giác.

Điều thứ nhất: Phải biết rằng, cõi thế gian là vô thường, đất đai nọ chẳng vững vàng. Thân "tứ đại" khổ muôn đường. Bởi "ngũ uẩn" làm mơ màng. Là khổ cả, phải tỏ tường. "Sinh" rồi "diệt" biến đổi luôn. Giả dối hết, không chủ trương. Biển ác nọ, tâm là nguồn. Rừng tội đó, thân phải mang. Xem xét thế cho kỷ càng. Cầu "sinh, tử" liền qua sang.

Điều thứ hai: Phải biết rằng: Ham muốn nhiều nên mới khổ, nổi nhọc nhằn, cầu "sinh tử" vì đâu ra ? Bởi tham đó. Đạo "Vô vi" ta hâm mộ, lòng tục trần ta đánh đổ, cứ thế làm tất tới chỗ "Tự tại thân", vui thiên cổ.

Điều thứ ba: Phải biết rằng: Cái tâm ta tham vô cùng, có bao nhiêu chẳng vừa lòng, biển tội ác càng mênh mông. Bậc Bồ Tát thì lại khác, "biết đủ" rồi thường an lạc, giữ đạo màu, theo "tiên giác", vun "tuệ căn" không trễ nhác.

Điều thứ tư: Phải biết rằng: Hể biếng lười thì trụy lạc, tinh tiến lên trừ tội ác. Bốn con ma "tham, sân, si" với phiền não "tật đố" kia, nhờ tinh tiến đều xa lìa. Ma ngũ ấm: "sắc, thọ, tưởng, hành, thức" biến muôn hình trạng, nhờ tinh tiến đều vắng lặng. Ma tử kia độc ác ghê, giết hại người thực vô kỳ, nhờ tinh tiến chẳng hải chi. "Tự tại thiên" ma cõi Dục cản việc lành, phá tính thực, khiến cho người càng ác độc, nhờ tinh tiến thoát địa ngục.

Điều thứ năm: Phải biết rằng: Vì ngu si "sinh, tử" hoài. Các Bồ Tát chăm dùi mài, học biết rộng, trí sáng soi, tài biện bác, giáo hóa người, cho hết thảy đều vui vầy.

Điều thứ sáu: Phải biết rằng, kẻ nghèo khổ hay oán hờn, cứ nhắm mắt mà làm càn. Hạnh Bồ Tát, nhứt bố thí, coi bình đẳng không khinh bỉ, oán thù xưa, kẻ độc dữ, cũng từ bi mà tha thứ.

Điều thứ bảy: Phải biết rằng, năm món dục "thanh, sắc, tài, ăn với ngủ" làm mê người, nên xa lánh, chớ miệt mài. Một bình bát, ba cà sa, quí pháp khí nguyện xuất gia, niềm thanh tịnh, giữ đạo ta, tu nết tốt, đức "Từ Bi" thảy chan hòa.

Điều thứ tám: Phải biết rằng, lửa sinh tử cháy nồng nàn, nỗi khổ não thực khôn lường. Mở cõi lòng, lòng "Đại Thừa" cứu hết thảy, tai nạn qua. Phát nguyện lớn vì chúng sanh, chịu thay hết nỗi khổ hình, cho đều được hưởng thái bình.

Tám điều trên. Là Chư Phật, cùng Bồ Tát, đã hiểu tất, nên làm đạo, tinh tiến thật. Đại Từ Bi "trí huệ" nhứt, cỡi con thuyền, thuyền "Pháp thân", sang "Niết Bàn" vui vô ngần. Lại trở lại cõi hồng trần cứu đại chúng thoát khổ nàn.

Lấy tám điều, tám điều trên, để chỉ dẫn đều tiến lên, cho chúng sinh rõ nhãn tiền, biết "sinh tử" khổ vô biên. Bỏ "ngũ dục", tu đạo liền, Đạo đạo thánh, Tâm tâm niềm.

Đệ tử Phật cứ một môn, tám điều đó, tụng tụng luôn, làm đúng mực, đạo vuông tròn, trong mỗi niệm tội tiêu mòn. Nhờ công ấy, sạch tội ác, tới Bồ Đề, lên Chánh Giác, hết "Tử, Sinh" thường an lạc.

NIỆM PHẬT

Nam mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (30 lần)

Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (3 lần)

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát (3 lần)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát nhã ba la mật
Tức diệu pháp Trí Độ.
Bổng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh,
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả,
Mọi khổ đau ách nạn.
"Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc.
Còn lại bốn uẩn kia,
Cũng đều như vậy cả."
Xá Lợi Tử, nghe đây:
Thể mọi pháp đều không,
Không sanh cũng không diệt,
Không nhơ cũng không sạch,
Không thêm cũng không bớt.
Cho nên trong tánh không,
Không có sắc, thọ, tưởng,
Cũng không có hành,thức.
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý - sáu căn.
Không có sắc, thanh, hương,
Vị, xúc, pháp - sáu trần.
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý-thức.
Không hề có vô-minh,
Không có hết vô-minh,
Cho đến không lão tử,
Cũng không hết lão tử.
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí, cũng không đắc,
Vì không có sở đắc.
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát nhã ba la mật
Thì tâm không chướng ngại,
Vì tâm không chướng ngại,
Nên không có sợ hãi,
Xa lìa mọi mộng tưởng,
Xa lìa mọi điên đảo,
Đạt Niết Bàn tuyệt đối.
Chư Phật trong ba đời,
Y diệu pháp Trí Độ
Bát nhã ba la mật,
Nên đắc Vô Thượng Giác.
Vậy nên phải biết rằng,
Bát nhã ba la mật
Là linh chú đại thần,
Là linh chú đại minh,
Là linh chú vô thượng,
Là linh chú tuyệt đỉnh,
Là chân lý bất vọng,
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn.
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát nhã ba la mật."
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

(3 lần)

TỰ QUY và ĐẢNH LỄ

(Đồng đứng dậy chắp tay niệm lớn)

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

(Đứng ngay thẳng chắp tay đồng niệm)

Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.

(Xá 3 xá rồi lui ra)